TƯỞNG NIỆM 13 ANH HÙNG LIỆT SĨ VIỆT NAM QUỐC DÂN ĐẢNG HY SINH TẠI YÊN BÁI NGÀY 17-6-1930
June 16, 2021
Ngày 17 tháng 6 hàng năm đã trở thành ngày tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ VNQDĐ bị Pháp xử chém tại pháp trường Yên Bái vì đã xả thân tranh đấu cho nền độc lập dân tộc, cho hạnh phúc của giống nòi. Sự hy sinh cao cả của 13 vị liệt sĩ cách mạng Việt Nam là gương sáng chói lọi cho các thế hệ Việt Nam sau này trong sự nghiệp cứu quốc và kiến quốc.
Xin thuật lại sơ lựợc lịch sử và ý nghĩa ngày tưởng niệm này để chúng ta cùng suy nghĩ, tâm niệm, nhất là đối với các bạn trẻ trong và ngoài nước.
BỐI CẢNH LỊCH SỬ
Vào đầu thế kỷ 20, thực dân Pháp ngày càng đè nặng ách thống trị lên đất nước Việt Nam từ Bắc chí Nam. Chúng đàn áp dã man, bóc lột tận xương tủy; nào sưu cao thuế nặng, nào bắt bớ giam cầm, tù đày, tra tấn, thủ tiêu những người yêu nước; các phong trào chống Pháp trước đó đều bị dẹp tan. Khắp nơi đâu đâu cũng nghe tiếng oán hờn, nỗi uất hận cao ngút thấu trời xanh.
Trước hoàn cảnh cực kỳ đau thương đó, các thanh niên Việt Nam nói riêng, tòan dân Việt nói chung, không thể tiếp tục cúi đầu khuất phục, đều đứng lên chống lại bạo quyền. Nguyễn Thái Học, một sinh viên trường Cao Đẳng Thương Mại Hà Nội mới 24 tuổi cùng các thanh niên Việt Nam yêu nước khác như Nhượng Tống, Phạm Tuấn Tài, Phạm Tuấn Lâm, Hồ Văn Mịch, Phó Đức Chính, Nguyễn Ngọc Sơn, Lê Văn Phúc… bí mật thành lập một tổ chức cách mạng lấy tên là VIỆT-NAM QUỐC-DÂN ĐẢNG vào ngày 25/12/1927. Mục đích và tôn chỉ của VNQDĐ là tiến hành một cuộc cách mạng quốc gia, dùng vũ lực đánh đổ chế độ thực dân phong kiến , thiết lập một nước Việt Nam Độc Lập Cộng Hoà. Đồng thời giúp đỡ các dân tộc bị áp bức, đặc biệt là các lân quốc Ai Lao và Cao Miên đánh đuổi thực dân Pháp giành độc lập tự do cho dân tộc họ. Nguyễn Thái Học được bầu làm Chủ Tịch Tổng Bộ. Cụ Phan Bội Châu được suy cử là Đảng Trưởng Danh dự. Sau đó, VNQDĐ bành trướng mau lẹ, lan khắp các tỉnh miền Bắc Việt Nam.
Ngày 9 tháng 2 năm 1929, nhằm chiều 30 Tết Mậu Thìn, tên trùm thực dân Pháp Bazin, Giám đốc sở mộ phu cho các đồn điền bị ám sát tại Hà Nội do các đảng viên VNQDĐ Nguyễn Văn Viên, Nguyễn Đức Lung, Nguyễn Văn Lân thực hiện, gây chấn động khắp Đông Dương. Mật thám Pháp gia tăng khủng bố, trả thù tàn bạo.
CUỘC TỔNG KHỞI NGHĨA YÊN BÁI
Trước hoàn cảnh cùng cực của người dân, trước sự ruồng bố gắt gao của Pháp, Việt Nam Quốc Dân Đảng quyết định Tổng Khởi Nghĩa vào ngày 10-2-1930 sau phiên họp lịch sử của VNQDĐ tại Võng La làng Mỹ Xá ngày 26 tháng Giêng năm 1930, dưới sự chủ toạ của Nguyễn Thái Học, Nguyễn Khắc Nhu (Xứ Nhu)và Phó Đức Chính. Cũng trong phiên họp lịch sử này, Nguyễn Thái Học đã để lại cho hậu thế câu nói bất hủ “KHÔNG THÀNH CÔNG CŨNG THÀNH NHÂN”. Sáng sớm ngày 10 tháng 2 năm 1930, Quân Cách Mạng đồng loạt tấn công nhiều cứ điểm quân sự của Pháp ở khắp nơi: Tấn công Yên Bái, Lâm Thao, Hưng Hóa; ném bom cầu Long Biên, nội thành Hà Nội; đánh Đáp Cầu, Phả Lại; tấn công đồn binh Pháp Kiến An; đánh Phủ Dực, Vĩnh Bảo, Thái Bình; giết chết nhiều sĩ quan, binh lính địch và chiếm nhiều căn cứ của thực dân. Đặc biệt, trên mỗi tay áo các chiến sĩ VNQDĐ đều có gắn chữ “Cách Mạng Quân”, với khăn choàng trước ngực có hàng chữ : “THỀ CHẾT GIẾT GIẶC PHÁP, LIỀU MÌNH CỨU DÂN NAM”.
Quân Pháp với vũ khí tối tân đã phản công mạnh bạo khiến cho quân Khởi Nghĩa cuối cùng bị đẩy lui vì phương tiện còn thiếu thốn. Nhiều chiến sĩ cách mạng bị bắt. Đảng trưởng Nguyễn Thái Học trốn thoát nhưng cuối cùng bị sa lưới quân thù vào ngày 20/2/1930 tại ấp Cổ Vịt vì ông nhất định ở lại, sống chết cùng các đồng chí, không chịu trốn sang Trung Hoa lưu vong.
CUỘC HÀNH QUYẾT NGÀY 17-6-1930 TẠI YÊN BÁI
Nhằm tiêu diệt mầm mống cách mạng, đồng thời khủng bố tinh thần những người yêu nước khác,ngày 23 tháng 3 năm 1930, Hội Đồng Đề Hình thực dân đã kết án tử hình 13 đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng tại Yên Bái ngày 17-6-1930. (Mức Án sơ khởi là: 39 người bị án tử hình; 33 người bị án khổ sai chung thân; 9 người bị án 20 năm khổ sai; 5 người bị án tội đày trong số có cô Nguyễn Thị Bắc 5 năm tù ở. Đặc biệt trước phiên tòa , cô Nguyễn Thị Bắc đã phản đối kịch liệt và hô to: “ Các ngươi hãy về ngay nước Pháp mà kéo đổ tượng Jeanne D’ Arc đi thôi.”
Trong tác phẩm “Từ Yên Bái đến ngục thất Hỏa Lò”, tác giả Hoàng Văn Đào đã tường thuật cuộc xử chém như sau :
“Yên Bái, một vị trí lịch sử lần thứ hai lại chứng kiến các đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng đền nợ nước.
Trong chuyến xe lửa bí mật, riêng biệt khởi hành từ Hà Nội lên Yên Bái, các tử tù cứ hai người còng làm một, trò chuyện ở toa hạng tư trên một lộ trình dài 4 tiếng đồng hồ. Cùng đi với các tội nhân còn có các thanh tra sở mật thám Pháp, hai cố đạo người Âu là Linh Mục Mechet và Dronet. Máy chém cũng di chuyển theo cùng chuyến xe. Đao phủ thủ phụ trách buổi hành quyết là Cai Công.
“Cuộc hành quyết khởi sự vào lúc 5 giờ kém 5 phút sáng ngày 17-6-1930 trên một bãi cỏ rộng với sự canh phòng cẩn mật của 400 lính bản xứ. Xác chết 13 người chôn chung dưới chân đồi cao, bên cạnh đồi là đền thờ Tuần Quán, cách ga xe lửa độ một cây số.”
Danh tánh của 13 Liệt Sĩ đã lần lượt lên máy chém như sau : Bùi Tử Toàn (37 tuổi), Bùi Văn Chuẩn (35 tuổi), Nguyễn An (31 tuổi), Hồ Văn Lạo (25 tuổi), Đào Văn Nhít, Nguyễn Văn Du, Nguyễn Đức Thịnh, Nguyễn Văn Tiềm, Đỗ Văn Sứ, Bùi Văn Cửu, Nguyễn Như Liên (20 tuổi), Phó Đức Chính (23 tuổi) và cuối cùng là Nguyễn Thái Học (28 tuổi). Tất cả các liệt sĩ đều dõng dạc hô to :”Việt-Nam Muôn Năm” trước khi máy chém rơi trên đầu những nhà Cách Mạng. Riêng ông Phó Đức Chính đòi nằm ngửa để nhìn lưỡi chém rớt xuống cổ mình.
Ký giả Pháp Louis Roubaud, chứng kiến cuộc hành hình các nhà cách mạng Việt Nam sau này đã viết: “Tôi phải dở nón nghiêng mình kính phục tinh thần ái quốc, lòng dũng cảm vô bờ bên của những người Việt Nam…” (Vietnam, Tragédie Indochinoise)
Sau ý định tổ chức giải cứu các đồng chí bất thành, lại tận mắt chứng kiến lần lượt 13 đồng chí của mình lên đoạn đầu đài, ngày hôm sau, nữ đảng viên Nguyễn Thị Giang ( Cô Giang) trở về làng Thổ Tang. Cô vào mái nhà xưa của Nguyễn Thái Học, lạy tạ cụ Ông và cụ Bà Nguyễn Văn Hách, cha mẹ Nguyễn Thái Học, tháo chiếc đồng hồ tay đang đeo tặng cho Nguyễn Văn Lâm, em Nguyễn Thái Học. Cô đi bộ đến quán bán nước trà xanh, nơi gốc cây đề, đứng hướng mặt về làng Thổ Tang, dùng súng lục mà Nguyễn Thái Học đã tặng cô ở đền Hùng Vương, tuẫn tiết theo người yêu, người đồng chí của mình, cũng là đảng trưởng Nguyễn Thái Học. Hôm ấy là ngày 18 tháng 6 năm 1930 tức là ngày 22 tháng 5 năm Canh Ngọ. Cô Giang hưởng dương 22 tuổi.
Trong cuộc Khởi Nghĩa Yên Bái, trên 30 đảng viên VNQDĐ đã bị xử chém, hàng ngàn đảng viên khác bị xử án từ chung thân đến lưu đày biệt xứ. Số còn lại đã rút vào bóng tối, tiếp tục cuộc chiến đấu. Cuộc Khởi Nghĩa tuy thất bại nhưng đã tạo nên tiếng vang khắp nơi, làm nức lòng đồng bào trong nước và gây rúng động cả chính quốc Pháp.
Sau này, Nguyễn Phan An có làm bài thơ tưởng niệm Nguyễn Thái Học như sau:
Yến Bái đầu rơi một sớm nào,
Lòng son ngời sáng với trăng sao…
Vì dân dựng Đảng, ôi ! xương trắng,
Vì nước ra công, hỡi máu đào !
Cách mệnh chưa thành ! Sông núi khóc,
Tài mưu sớm thác ! Gió mưa gào.
Mai mươi tám tuổi “thành nhân” ấy,
Trang sử ngàn thu đã bước vào.
TIẾP NỐI TINH THẦN YÊN BÁI
Xử chém được 13 chiến sĩ VNQDĐ tại Yên-Bái, thực dân Pháp đã tưởng đàn áp được tinh thần yêu nước của dân ta. Trái lại, tiếp nối truyền thống anh hùng bất khuất và noi gương hy sinh dũng cảm của tiền nhân trong đó có 13 vị Liệt Sĩ Yên Bái, nhiều thế hệ dân tộcViệt Nam tiếp tục cuộc kháng chiến chống Pháp giành độc lập, chống độc tài, chống phong kiến và hiện nay còn đang mạnh mẽ chống lại ách cai trị tàn bạo của tập đoàn cộng sản Việt Nam tại Hà Nội. Đất nước đang bị lâm nguy trước họa xâm lăng của giặc bành trướng phương Bắc, tinh thần bất khuất Yên Bái cần được toàn dân gìn giữ, trân trọng tiếp nối để Tổ Quốc vĩnh viễn được Độc Lập, Dân Quyền thật sự được Tự Do, Dân Sinh thật sự được Hạnh Phúc.
CHÚNG TÔI ĐI TRẢ NỢ NƯÓC ĐÂY,
CÁC ANH EM CÒN SỐNG CỨ NGƯỜI NÀO VIỆC ẤY,
CỜ ĐỘC LẬP PHẢI NHUỘM BẰNG MÁU,
HOA TỰ DO PHẢI TƯỚI BẰNG MÁU!
TỔ QUỐC CÒN CẦN ĐẾN SỰ HY SINH CỦA CON DÂN NHIỀU HƠN NỮA!
RỒI THẾ NÀO CÁCH MẠNG CŨNG THÀNH CÔNG!
(Lời của Nguyễn Thái Học dặn lại các đồng chí trước khi ra pháp trưòng ngày 17 tháng 6 năm 1930)